Giữa hai cuộc chiến Douglas MacArthur

MacArthur có một thời gian khó khăn để tìm một vị trí toàn thời gian trong quân đội, cũng giống như nhiều giới chức quân sự sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Điều này làm cho ông chán nản tuyệt vọng. Tuy nhiên, ông được phép giữ cấp bậc thời chiến của mình, không như những người khác bị đổi xuống cấp bậc vĩnh viễn thấp hơn. Ông dùng các mối quan hệ của cha mình cũng như của chính ông để tìm kiếm một nhiệm vụ thích hợp. Một nhiệm vụ được đề nghị là trở thành một tùy viên quân sự trong Văn phòng Đặc trách người Bản địa (Bureau of Indian Affairs). Ông giữ được cấp bậc của mình sau chiến tranh phần lớn là nhờ vào Tướng Tham mưu trưởng Lục quân Peyton March. Năm 1919 MacArthur trở thành Giám đốc của Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point. Học viện này đã lỗi thời trong nhiều khía cạnh và rất cần được cải tổ. MacArthur ra lệnh thay đổi ngoạn mục trong các hệ thống kỷ luật, thể thao và chiến lược; ông hiện đại hóa chương trình học tập, thêm vào các môn nghệ thuật tự do, các khóa kinh tế và chính phủ.

Năm 1922, John Pershing trở thành Tham mưu trưởng Lục quân, và MacArthur nhận thấy rằng đời binh nghiệp của ông sang một khúc quanh khi ông được trông đợi là sẽ nhận nhiệm vụ tại hải ngoại. Từ 1922 đến 1930, MacArthur phục vụ hai lượt nhiệm vụ tại Philippines, lần thứ hai là tư lệnh Bộ Quân sự Philippines (1928-1930); ông cũng phục vụ hai vòng nhiệm vụ với vai trò tư lệnh các vùng quân sự tại Hoa Kỳ. Năm 1925, ông được thăng thiếu tướng, giới chức quân sự trẻ nhất trong cấp bậc này vào thời đó, và phục vụ trong tòa án quân sự kết án chuẩn tướng Billy Mitchell. Năm 1928, ông lãnh đạo Ủy ban Thế vận hội Hoa Kỳ cho Thế vận hội Mùa hè 1928 tại Amsterdam.

Các cuộc hôn nhân

Tướng MacArthur lập gia đình hai lần. Ông kết hôn lần đầu với bà Henrietta Louise Cromwell Brookson vào ngày 14 tháng 2 năm 1922 - người vợ đã li dị của Walter Brooks, Jr., và là con gái gọi Edward T. Stotesbury, một nhà ngân hàng giàu có ở Philadelphia, bằng cha dượng. Bà chấp thuận li dị với ông vào năm 1929 với lý do ông đã không lo được cho bà. Sau đó bà kết hôn với Lionel Atwill và mất vào tháng 8 năm 1973. Em trai của bà, James H. R. Cromwell, là chồng của Doris Duke.

MacArthur kết hôn với Jean Marie Faircloth từ Murfreesboro, Tennessee ngày 30 tháng 4 năm 1937. Bà sinh ngày 28 tháng 12 năm 1898 tại Nashville, Tennessee và mất 22 tháng 1 năm 2000, và là một người nhân đức, một nhà hoạt động xã hội. Bà học ở Đại học Ward-Belmont. Ông bà sống với nhau cho đến khi ông mất vào năm 1964. Trong những năm sau này, bà thường hay diễn thuyết về cuộc đời binh nghiệp của người chồng quá cố của bà. Bà mất vì già ở tuổi 101 tại Thành phố New York.

Con trai duy nhất của họ là Arthur sinh ngày 21 tháng 2 năm 1938 tại Manila. Arthur tốt nghiệp Đại học Columbia vào năm 1961.

Đoàn quân đòi Bổng lộc

Hành động gây tranh cãi nhất xảy ra năm 1932 khi Tổng thống Herbert Hoover ra lệnh cho ông giải tán Đoàn quân đòi bổng lộc (Bonus Army) gồm các cựu chiến binh đang tập trung tại thủ đô biểu tình chống chính quyền. MacArthur bị chỉ trích vì dùng hơi cay, xe tăng, kị binh với kiếm khỏi vỏ và bộ binh với lưỡi lê giương lên để giải tán những người biểu tình. Theo Tướng MacArthur, cuộc biểu tình là do cộng sản và những kẻ theo chủ nghĩa hòa bình chủ mưu, ông còn tuyên bố là chỉ có "một trong mười người là cựu chiến binh." Hai cựu chiến binh bị bắn chết, hai trẻ em chết vì hít hơi cay và hàng ngàn người bị thương.

Tham mưu trưởng

Tổng thống Franklin D. Roosevelt gia hạn bổ nhiệm MacArthur với tư cách Tham mưu trưởng (Chief of Staff) trong thời Đại Khủng hoảng. Vào lúc MacArthur chấm dứt vòng nhiệm vụ của ông với tư cách Tham mưu trưởng vào tháng 10 năm 1935, quân đội đứng hàng thứ 16 về quân số trong các quân đội trên thế giới với 13.000 sĩ quan và 126.000 binh sĩ hiện dịch. Chương trình chính của MacArthur bao gồm việc phát triển các kế hoạch tổng động viên mới, thiết lập một tổng hành dinh lưu động cho không quân, và tái tổ chức bốn quân đoàn để cải thiện hành chính một cách hữu hiệu. Ông ủng hộ chương trình cải tổ kinh tế gọi là New Deal bằng việc hăng hái điều hành các Đoàn Bảo tồn Dân sự (Civilian Conservation Corps). Ông mang theo mình nhiều sĩ quan nửa đời binh nghiệp tài giỏi, bao gồm George C. MarshallDwight D. Eisenhower. Tuy nhiên, MacArthur tạo nhiều kẻ thù là thành viên của chính phủ Roosevelt và thường hay tranh cãi với Tổng thống vì các ý kiến mạnh mẽ của ông. Sau khi hồi hưu, ông quay lại cấp bậc chuẩn thường trực là thiếu tướng và chấp thuận một vai trò mới ở Philippines.

Thống tướng của Quân đội Philippines

Khi Thịnh vượng chung Philippines giành được tư cách bán độc lập vào năm 1935, Tổng thống Philippines Manuel L. Quezon yêu cầu MacArthur giám sát việc thành lập quân đội Philippines. Là một tướng quân, MacArthur không chọn hồi hưu và vẫn có tên trong danh sách hiện dịch là một thiếu tướng và với sự đồng thuận của Rosevelt, MacArthur nhận nhiệm vụ. MacArthur đã làm bạn với Quezon khi cha của ông làm Toàn quyền Philippines. MacArthur có hai điều kiện trước khi nhận nhiệm sở: lương bổng của ông và nhà ở của ông phải như là của tổng thống. Ông cảm thấy có lý do cho việc đó vì ngôi nhà mà Quezon đang dùng trước đây là nhà mà Douglas đã biết khi còn là một đứa bé, đó là Dinh Malacanang. Dinh này từng là nhà của Toàn quyền Tây Ban Nha, Toàn quyền Mỹ và tất cả các Tổng thống Philippines đến ngày nay. Ngoài ra, MacArthur được phong hàm Thống tướng Quân đội Philippines (Field Marshal of the Philippine Army). Ông là sĩ quan cao cấp có tên trên danh sách của Quân đội Philippines ngày nay—ông cũng là sĩ quan quân sự Mỹ duy nhất giữ cấp bậc thống tướng trong Quân đội Philippines.

Chính phủ Philippines quyết định cấp cho MacArthur một phòng lớn ở Khách sạn Manila danh tiếng của thế giới. Khách sạn được chính quyền Philippines làm chủ. Nó nằm trên Vịnh Manila bên kia công viên của Câu lạc bộ Hải quân và Lục quân là nơi ông thích lui tới. Nó cũng tiện vì gần tòa đại sứ Hoa Kỳ. Những kế toán chính phủ quyết định cách tốt nhất để kết toán giá phòng là làm như MacArthur là một nhân viên của khách sạn để hưởng quyền lợi về chỗ ở. MacArthur được trao chức phận danh dự là "Tổng giám đốc". MacArthur làm ngơ với chức phận danh dự và nắm quyền điều hành khách sạn trong lúc ông ở đó. Phòng MacArthur vẫn còn tồn tại ở khách sạn. Mặc dù Manila là một trong các thành phố bị tàn phá nặng nề nhất qua các cuộc oanh kích của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khách sạn vẫn còn nguyên vẹn. Phòng MacArthur được dành cho sĩ quan quân sự cao cấp nhất trên quần đảo. MacArthur đưa ra lệnh tương tự cho các phi công Mỹ khi Philippines bị tái chiếm.

MacArthur đầu tư mạnh vào công nghiệp và khai khoáng của Philippines. Trước khi Ngân hàng Quốc gia Philippines (Philippine National Bank) ở Thành phố New York đóng cửa sau khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, MacArthur đã kịp bán hết cổ phần của mình và đổi hết tiền Peso Philippines sang đô la Mỹ.

Trong số các phụ tá của MacArthur làm cố vấn quân sự cho Thịnh vượng chung Philippines là Dwight D. Eisenhower. (vài năm sau đó, Eisenhower được hỏi là có biết MacArthur không thì ông trả lời như sau: "Biết ông ấy à? tôi đã học hỏi nhiều ấn tượng dưới quyền của ông ấy trong bảy năm!")

Tháng 7 năm 1941, Roosevelt gọi ông trở lại nhiệm vụ hiện dịch trong Quân đội Hoa Kỳ với tư cách là một thiếu tướng và đặc cách ông làm tư lệnh của Tổng lực lượng Vũ trang Hoa Kỳ ở Viễn Đông và thăng chức ông lên hàm trung tướng vào ngày hôm sau. Tháng 12, ông trở thành đại tướng bốn sao khi Nhật Bản tấn công khắp mặt trận rộng lớn trong Thái Bình Dương.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Douglas MacArthur //nla.gov.au/anbd.aut-an35318002 http://www.americanrhetoric.com/speeches/douglasma... http://www.arkmilitaryheritage.com/ http://www.bartssubic.com/barts/MacArthur.html http://english.chosun.com/w21data/html/news/200507... http://english.chosun.com/w21data/html/news/200611... http://www.nytimes.com/learning/general/onthisday/... http://ww2db.com/person_bio.php?person_id=3&list=G... http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://catalogo.bne.es/uhtbin/authoritybrowse.cgi?...